Sau sáu năm phát triển liên tục, chiếc bánh kinh tế toàn cầu đã nở phồng lên theo tỷ lệ chưa từng thấy, nhưng đáng buồn là người giàu đang ăn hầu hết những lát bánh mới. Họ đang dùng cả quyền lực của mình để bảo đảm chắc chắn là người làm bánh sẽ chuyển những lát bánh trên tới gia đình của họ trước khi chúng được mạo hiểm chuyển tới những gia đình nghèo khổ hơn ở những khu lân cận.
Bangalore là thành phố trung tâm phía Nam của Ấn Độ, một trung tâm IT lớn của châu Á, chính vì thế nơi đây có thể xem như một ví dụ điển hình và rõ nét cho sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra.
Câu chuyện của tôi bắt đầu từ những ngày đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này, khi đi chợ, tôi để ý thấy ngoài thịt bò và thịt lợn chắc chắn không có bán ở siêu thị, thì chỉ có thịt cừu và thịt gà là thông dụng. Với vị trí địa lý nằm sâu trong đất liền như Bangalore, thì thủy hải sản càng khan hiếm, các loại cá, tôm được bày bán trong gian hàng đông lạnh gần như đã được bảo quản cả tháng trời mới tới được tay người mua. Chính vì thế, nhu cầu tìm kiếm nguồn “cá tươi” cho bữa ăn của người Việt Nam chúng tôi nảy sinh từ đó.
Khu vực tôi ở gần một hồ lớn – Madivala – có ai đó đã cho chúng tôi biết là buổi sáng, ở hồ người ta đánh cá, có thể tới mua cá tươi tại đó. Sáng chủ nhật, theo lời chỉ dẫn, chúng tôi đi men theo con đường ven hồ rồi theo một lối nhỏ lên bờ đê để ra hồ. Chợ cá hiện ra trước mắt, và không như những gì tôi nghĩ ban đầu, đây không chỉ đơn thuần là một cái chợ.
Hai túp lều lớn nằm lọt thỏm dưới những tán cây, người ta đang tập trung ở đó để mua cá. Ở đây hiện diện gần như đầy đủ các tầng lớp hạ lưu – người bán và trung lưu lẫn thượng lưu – người mua.
Những người mua là những người sinh sống quanh đó, từ những khu nhà lớn, biệt thự chỉ cách khu ổ chuột này 15 hay 20m. Để cho dễ hình dung, chúng ta có thể ví những căn nhà lớn như khu vực Phú Mỹ Hưng, và khu ổ chuột thì cũng tương đương như khu vực vạn đò cách đây 1, 2 năm ở Huế. Vào buổi sáng, người ta dùng những chiếc thúng, mủng tự tạo ra hồ giăng lưới để bắt cá.
Sau đó cá được tấp nập chuyển lên chỗ tập trung để phân loại và cho khách đến chọn.
Số cá thu được một phần sẽ bán lẻ cho những người đến mua trực tiếp, số còn lại sau buổi sáng sẽ được đưa lên xe chở đi đến những khu vực khác. Muốn mua cá, người ta đến chọn cá, chọn số ký rồi trả tiền, sau đó cá sẽ được đưa lên những chiếc cân đòn, tùy theo loại cá mà có mức giá khác nhau. Giá cá dao động trong khoảng 70 Rupees (INR) / 1 kg, tức là vào khoảng 35 ngàn vnđ.
Sau khi cân ký sơ sài, người mua đem cá lại đằng sau lều, ở đó có những người khác đang ngồi sẵn để làm cá theo yêu cầu của khách.
Khu vực làm cá chỉ đơn giản là 3 tấm bạt và dao kéo, cả người làm lẫn người mua quây quanh cái bạt nhỏ, chen lẫn giữa xác cá vung vãi và ruồi nhặng đang ùn ùn kéo tới.
Nói một cách hài hước là cả người và ruồi đang chen nhau xem cá. Giá công cho một lần làm cá (khoảng 1-2 bao nhỏ) là 10 đến 20 INR, bao gồm lóc vảy, chặt vây, lọc nội tạng và cắt khúc theo yêu cầu của khách.
Hai túp lều lớn nằm lọt thỏm dưới những tán cây, người ta đang tập trung ở đó để mua cá. Ở đây hiện diện gần như đầy đủ các tầng lớp hạ lưu – người bán và trung lưu lẫn thượng lưu – người mua.
Những người mua là những người sinh sống quanh đó, từ những khu nhà lớn, biệt thự chỉ cách khu ổ chuột này 15 hay 20m. Để cho dễ hình dung, chúng ta có thể ví những căn nhà lớn như khu vực Phú Mỹ Hưng, và khu ổ chuột thì cũng tương đương như khu vực vạn đò cách đây 1, 2 năm ở Huế. Vào buổi sáng, người ta dùng những chiếc thúng, mủng tự tạo ra hồ giăng lưới để bắt cá.
Sau đó cá được tấp nập chuyển lên chỗ tập trung để phân loại và cho khách đến chọn.
Số cá thu được một phần sẽ bán lẻ cho những người đến mua trực tiếp, số còn lại sau buổi sáng sẽ được đưa lên xe chở đi đến những khu vực khác. Muốn mua cá, người ta đến chọn cá, chọn số ký rồi trả tiền, sau đó cá sẽ được đưa lên những chiếc cân đòn, tùy theo loại cá mà có mức giá khác nhau. Giá cá dao động trong khoảng 70 Rupees (INR) / 1 kg, tức là vào khoảng 35 ngàn vnđ.
Sau khi cân ký sơ sài, người mua đem cá lại đằng sau lều, ở đó có những người khác đang ngồi sẵn để làm cá theo yêu cầu của khách.
Khu vực làm cá chỉ đơn giản là 3 tấm bạt và dao kéo, cả người làm lẫn người mua quây quanh cái bạt nhỏ, chen lẫn giữa xác cá vung vãi và ruồi nhặng đang ùn ùn kéo tới.
Nói một cách hài hước là cả người và ruồi đang chen nhau xem cá. Giá công cho một lần làm cá (khoảng 1-2 bao nhỏ) là 10 đến 20 INR, bao gồm lóc vảy, chặt vây, lọc nội tạng và cắt khúc theo yêu cầu của khách.
Để nói về chợ cá thì đến đây là gần như đủ, nhưng như tôi nói ban đầu, đây không đơn thuần là một cái chợ cá. Chỉ cách khu vực này 30m, cuộc sống của những người dân ở đây vẫn đang diễn ra.
Phía dưới hồ, cạnh mép nước, đám thanh niên đang hì hục giặt áo quần. Nói một cách chính xác và dễ hình dung là giặt đập, một hình ảnh rất đỗi quen thuộc ven sông An Cựu hay sông Hương ở Huế. Nếu như ở quê tôi, các bà các cô đem áo quần lẫn bột giặt ra sông ngồi giặt cười nói rôm rả, thì ở đây thanh niên giặt đập trong tiếng nhạc Ấn phát ra từ chiếc catset đặt gần đó.
Đám phụ nữ thì ở trên bờ, chờ các anh giặt xong thì đem áo quần đi phơi, và dĩ nhiên là tụm năm tụm ba tám tít cười cười nói nói.
Phơi ở đây đơn giản hơn nhiều so với Việt Nam, họ chỉ việc trải áo quần ra ngay trên đường đất, phần còn lại là việc của nắng, của ông trời.
Vẫn có treo, có móc, nhưng không phải là áo quần, mà là một loại nôi tự tạo.
Người ta lấy vải cột thành một cái túi như tay nải của người Trung Quốc ngày xưa, rồi treo lên cành cây cao gần chục mét là thành cái nôi. Sau đó các bà mẹ đặt con vào trong đó, rồi cũng đong đưa, cũng hát ru, còn đứa bé thì ngủ khì hoặc khóc bướng.
Cạnh đó, những đứa lớn hơn đang chạy nhảy cười đùa. Khi tôi đang ngồi trên bờ chăm chú nhìn cảnh giặt giũ, thì một người đàn ông trong đám đó quay lên nói gì đó với tôi bằng ngôn ngữ bản địa. Tôi trả lời và ra dấu lại rằng mình chỉ biết tiếng Anh, một hồi thì có một người gần đó nói với tôi rằng anh ta muốn tôi chụp một bức ảnh và cho anh ta xem. Cười cười vì đã hiểu, tôi vẫy tay, chàng ta thả đống áo quần đang giặt, hăm hở chạy lên xem ảnh, rồi cả đám phá lên cười vì có lẽ đây là lần đầu anh thấy ảnh của mình, đang giặt. Đám trẻ con cũng khúc khích khi thấy ảnh của chúng, các bà mẹ thì vẫy tay chào tôi khi chúng tôi ra về.
Phía dưới hồ, cạnh mép nước, đám thanh niên đang hì hục giặt áo quần. Nói một cách chính xác và dễ hình dung là giặt đập, một hình ảnh rất đỗi quen thuộc ven sông An Cựu hay sông Hương ở Huế. Nếu như ở quê tôi, các bà các cô đem áo quần lẫn bột giặt ra sông ngồi giặt cười nói rôm rả, thì ở đây thanh niên giặt đập trong tiếng nhạc Ấn phát ra từ chiếc catset đặt gần đó.
Đám phụ nữ thì ở trên bờ, chờ các anh giặt xong thì đem áo quần đi phơi, và dĩ nhiên là tụm năm tụm ba tám tít cười cười nói nói.
Phơi ở đây đơn giản hơn nhiều so với Việt Nam, họ chỉ việc trải áo quần ra ngay trên đường đất, phần còn lại là việc của nắng, của ông trời.
Vẫn có treo, có móc, nhưng không phải là áo quần, mà là một loại nôi tự tạo.
Người ta lấy vải cột thành một cái túi như tay nải của người Trung Quốc ngày xưa, rồi treo lên cành cây cao gần chục mét là thành cái nôi. Sau đó các bà mẹ đặt con vào trong đó, rồi cũng đong đưa, cũng hát ru, còn đứa bé thì ngủ khì hoặc khóc bướng.
Cạnh đó, những đứa lớn hơn đang chạy nhảy cười đùa. Khi tôi đang ngồi trên bờ chăm chú nhìn cảnh giặt giũ, thì một người đàn ông trong đám đó quay lên nói gì đó với tôi bằng ngôn ngữ bản địa. Tôi trả lời và ra dấu lại rằng mình chỉ biết tiếng Anh, một hồi thì có một người gần đó nói với tôi rằng anh ta muốn tôi chụp một bức ảnh và cho anh ta xem. Cười cười vì đã hiểu, tôi vẫy tay, chàng ta thả đống áo quần đang giặt, hăm hở chạy lên xem ảnh, rồi cả đám phá lên cười vì có lẽ đây là lần đầu anh thấy ảnh của mình, đang giặt. Đám trẻ con cũng khúc khích khi thấy ảnh của chúng, các bà mẹ thì vẫy tay chào tôi khi chúng tôi ra về.
Một bức tranh nhỏ cho một khu có thể gọi là ổ chuột, người ta sống chen chúc trong những túp lều nhỏ, đánh cá sống qua ngày. Mọi sinh hoạt đều diễn ra quanh cái bờ hồ đó, từ sinh nhai, ăn uống, cho đến tắm táp, vệ sinh thường nhật. Vì thế cũng dễ hiểu khi các con đường mòn dẫn vào khu này đều đầy rẫy “mìn”, và sâu vào các bụi cây khô thì mật độ “mìn” ngày càng cao. Sự phân hóa giàu nghèo thể hiện ở chỗ chỉ cách các túp lều và bãi “mìn” này chỉ 10m là khu vực của hàng loạt các biệt thự, gagare, đường nhựa, những chiếc xe hạng sang. Những người giàu đang hưởng thụ cuộc sống của họ, và những người nghèo hơn, họ cũng có cuộc sống của riêng họ, ngay tại khu vực bờ hồ này. Và xa hơn nữa, ở những nơi khác, những cuộc sống giàu hơn và nghèo hơn vẫn đang diễn ra. Tôi nhận ra có một điểm chung của những giai cấp này, đó là cuộc sống tâm linh. Hết thảy người dân đều có một niềm tin lớn về đấng tối cao mà họ ngày ngày vẫn tôn thờ. Ở đất nước ngàn thánh này, nếu có dịp tìm hiểu đầy đủ hơn, tôi sẽ chia sẻ cùng mọi người về hệ thống các God và cuộc sống tâm linh của người dân. Trong khuôn khổ một bức tranh nhỏ về sự phân hóa giàu nghèo, có một nguồn sáng chung, đó là “In God we trust”. Theo thống kê, với tỷ lệ dân số sống trong những khu nhà ổ chuột là 10%, thì Bangalore đã có những bước tiến tốt so với các thành phố đang phát triển của thế giới như Mumbai (50%) và Nairobi (60%). Đó một phần chính là thành công lớn của tôn giáo nhằm xích gần lại các giai cấp, bên cạnh những nỗ lực ngày ngày của chính phủ, của quốc gia.
Copyright by Sonic
Chưa kịp đọc nhưng mà ảnh wide-angle ấn tượng phết :X.. Làm quiz tiếp đã :((
ReplyDeletee thích bài và hình quá đi mất! thích nhất cách ví này "Sau sáu năm phát triển liên tục, chiếc bánh kinh tế toàn cầu đã nở phồng lên theo tỷ lệ chưa từng thấy, nhưng đáng buồn là người giàu đang ăn hầu hết những lát bánh mới. "
ReplyDelete